Wednesday, September 2, 2009

Không ai muốn bất hạnh đến với mình

*Đặng thiên Sơn

Đời sống của con người là một chuỗi ngày sinh ra để sống rồi chết. Trong chuỗi ngày này, vấn đề không phải là một trăm năm hay vài chục năm. Mà khi sống, người ta đã làm được những điều gì có ý nghĩa, cũng như không ai muốn những điều bất hạnh xảy đến cho mình và những người thân. Những điều bất hạnh là những chuyện không nằm trong quy luật : sinh ra, già yếu, bịnh hoạn, để rồi chết với quan điểm “con kiến còn ham sống.”

Tuy không muốn, nhưng con người vẫn thường phải đón nhận những chuyện bất hạnh, không vui. Một trong những trường hợp không vui đã xảy đến cho gia đình ông Phạm Vinh , là việc cậu Daniel Sơn Phạm bị cảnh sát San Jose bắn chết đúng vào ngày “Mother day” 10 tháng 05 năm 2009 vừa qua.

Daniel Sơn Phạm bị bắn chết tới nay, ngày tôi viết những giòng chữ này, đã được hơn 100 ngày 2 tuần. Cái chết của Daniel Sơn Phạm vẫn còn bít kín và vẫn chưa được chính quyền thành phố làm sáng tỏ nội vụ.

Có thể nói cái chết của Daniel Sơn Phạm là một vụ án mạng hy hữu. Hy hữu vì kẻ gây ra án mạnh là nhân viên công lực. Nhân viên công lực ở đây là nhân viên cảnh sát - người hưởng bổng lộc do dân đóng thuế được gọi đến để giúp nạn nhân. Nhưng ngược lại, họ đã trở thành kẻ giết người. Thật là oái oăm! Vì trên đời này không có chuyện nghịch lý là người ta đóng thuế để đi mướn người đến giết thân nhân họ.

Cái chết của Daniel Sơn Phạm không những riêng trong cộng đồng Việt Nam bàng hoàng, mà hầu như mọi cư dân trong thành phố San Jose đều ngẫng ngơ, sững sốt.

Xin hãy nghe lời kể của ông Phạm Vinh, cha nạn nhân. Để thấy rằng thảm cảnh xảy ra có những điều mà sở cảnh sát cần xét lại việc làm “giúp đở dân” của họ.

Theo lời ông Phạm Vinh, thì con trai ông là cậu Daniel Sơn Phạm 28 tuổi bị bịnh tâm thần đã lâu. Sơn bị bịnh từ khi còn đi học ở college. Chính vì bịnh nên Sơn đã không theo đuổi việc học đến nơi đến chốn.

Biết con mình chẳng may bị bịnh, nên mọi người trong gia đình ông Vinh, ai cũng hết sức thương yêu, chịu đựng và giúp đở Sơn vượt qua mọi cơn khủng hoảng tâm lý. Trong tiến trình chữa trị với những khó khăn thỉnh thoảng xảy ra, gia đình ông Phạm Vinh đã ba lần gọi 911 để nhờ cảnh sát đến đưa Phạm Sơn vào bịnh viện.

Ông Phạm Vinh cho biết, mỗi lần Sơn lên cơn để đến nỗi gia đình phải nhờ cảnh sát can thiệp, là mỗi lần gia đình ông lo sợ khi nghĩ đến thảm cảnh của Trần Thị Bích Câu năm nào. Bích Câu đã bị cảnh sát bắn chết. Thế nên, chẳng đặng đừng gia đình ông mới nhờ đến cảnh sát. Nhưng, nỗi lo sợ của gia đình ông Vinh đã trở thành sự thật. Đến lần thứ tư, khi gọi cảnh sát đến can thiệp, thì việc bất hạnh lại xảy ra.

Khi nhân viên cảnh sát đến nhà, người anh của Daniel Sơn Phạm là Brian Phạm đã lên tiếng báo động với cảnh sát rằng, Daniel Sơn Phạm là một người đang mắc bịnh tâm thần. Đồng thời Brian Phạm đã ba, bốn lần lên tiếng nhắc nhở, dặn dò, khẫn khoản với cảnh sát “Xin đừng bắn em tôi!”. Nhưng, hình như những người cảnh sát hành sự không quan tâm đến những lời khuyến cáo, van xin tha thiết của Brian Phạm. Họ bất chấp lời nhắc nhở của người dân và cứ lặng lẽ làm theo ý của họ. Điều này, đã cho thấy thiếu sự hợp tác, khi lúc nào họ cũng hô hào kêu gọi sự hợp tác của người dân.

Khi đến nơi, từ phía trước nhà, nhân viên cảnh sát tiến về phía sân sau nơi Daniel Sơn Phạm đang đứng một mình. Họ nhắm vào Daniel Sơn Phạm bắn 4,5 phát liền một lúc làm Sơn ngả gục chết liền tại chỗ.

Ông Phạm Vinh ngậm ngùi kể. Trong hoàn cảnh hiện trường vừa trình bày. Nếu nhân viên cảnh sát là những người có lòng nhân hậu và với tinh thần phục vụ người dân đúng đắn. Và là người tỉnh táo hơn Daniel Sơn Phạm, cảnh sát phải biết xử trí ra sao với một bịnh nhân tâm thần. Trước tiên họ phải có lòng trắc ẩn, thương cảm để “nới tay” đối với người bịnh. Hơn nữa Sơn đang đứng một mình và trong tình trạng không có thể gây nguy hiểm đến cho bất cứ một người nào, kể cả với họ. Nên điều người cảnh sát phải làm, nên làm là dùng lời khuyến dụ, thuyết phục để làm hạ cơn rối loạn tâm thần của Daniel Sơn Phạm rồi tìm cách đưa người bịnh vào nhà thương. Nhưng than ôi! những người “bạn dân” được mời đến giúp dân họ không làm việc này. Để giải quyết công việc một cách mau chóng và không cần suy nghĩ lôi thôi. Nhân viên cảnh sát đã nổ súng bắn chết Daniel Sơn Phạm ngay tại chỗ. Hành động này, khiến người ta liên tưởng đến phim cao bồi có tựa đề “Bắn Chậm Thì Chết” dạo nào.

Trong cuộc phỏng vấn của ông Thomas Nguyễn trên chương trình phát thanh của LDCTNV/BCL nào ngày thứ Sáu 22 tháng 8 năm 2009 vừa qua. Luật sư Nguyễn thị Thu Hương, người đang đảm trách hồ sơ Daniel Sơn Phạm cho biết 100 ngày đã trôi qua. Nhưng, tới giờ phút đó bên Sở Cảnh Sát thành phố vẫn chưa công bố một chi tiết nào về cái chết của Daniel Sơn Phạm.

Luật sư Thu Hương còn cho biết, theo lẽ thông thường thì chỉ trong một tuần lễ phải có bản báo cáo rồi. Về phía Giám định Pháp y cũng không được nhắc tới và ngay cả tên tuổi nhân viên cảnh sát bắn chết nạn nhân cũng không được tiết lộ. Những sự kiện vừa nói, đã cho thấy có những điều bất thường trong cái chết của Daniel Sơn Phạm, so với cái chết của Trần thị Bích Câu năm nào. Đối với vụ Trần thị Bích Câu, tất cả hồ sơ liên quan tới nội vụ chỉ trong một tuần đã được công bố công khai.

Qua cái chết Daniel Sơn Phạm với tinh thần làm việc của Sở Cảnh Sát, Văn Phòng Biện Lý và Văn phòng Thị Trưởng thành phố “đã không tránh khỏi người dân nghi ngờ” cái chết của Daniel Sơn Phạm do cảnh sát gây ra, là một vi phạm nghiêm trọng trong cách hành xử của cảnh sát khi tiếp cận với người dân.

Được biết trong Ngày Hội Cộng Đồng 23/8/09, đã có trên 600 đồng hương ký tên vào Bản Thỉnh Nguyện Thư của gia đình ông Phạm Vinh yêu cầu Hội Đồng Thành Phố làm sáng tỏ cái chết của Daniel Sơn Phạm và Sở Cảnh Sát công bố nội dung cuộn băng thu âm khi gia đình Daniel Sơn Phạm gọi 911 cầu cứu với Sở Cảnh Sát .

Sự việc xảy ra chưa ai khẳng định nhân viên ảnh sát đã hành sự đúng hay sai nguyên tắc. Nguyên tắc ở đây, là những điều người cảnh sát được huấn luyện tại trung tâm huấn luyện và sự uyển chuyển làm sao cho phù hợp với hoàn cảnh thực tế nơi hiện trường. Nhưng, điều tôi muốn nêu ra việc làm sáng tỏ nội vụ một cái chết, là bổn phận và nhiệm vụ của Sở Cảnh Sát, Hội Đồng Thành Phố, Văn phòng Biện Lý Cuộc khi có sự khiếu nại trong tinh thần luật định. Một việc mà chính quyền phải thực hiện càng sớm càng tốt, để tránh sự hoang mang trong lòng người dân.

Làm sáng tỏ một vụ án mạng ở đây, không có nghĩa bắt buộc chánh quyền phải thừa nhận lỗi lầm ngộ sát hay cố sát. Mà là sự giải thích rõ ràng quan điểm của chính quyền đối với sự việc để người dân an tâm sinh sống và tin tưởng vào sự làm việc của nhân viên cảnh sát. Thái độ trì hoản của chính quyền với thời gian dài bất thường, đã cho thấy chính quyền Chuck Reed khinh thường tiếng nói và mạng sống của người dân. Và những cơ quan liên hệ trong chính quyền không làm điều này là trái với lương tâm và công lý.

CĐVN là một cộng đồng thiểu số. Nhưng, về phương diện công dân Hoa Kỳ , người Việt đã đóng góp vào sự phồn vinh của thành phố San Jose. Do đó, họ có quyền đòi hỏi chính quyền giải đáp những thắc mắc, khiếu nại và thỉnh nguyện trong tinh thần thượng tôn luật pháp. Cái chết của thanh niên Daniel Sơn Phạm trên phương diện đời sống thì cũng bình thường như những cái chết khác. Nhưng, làm sáng tỏ nguyên nhân cái chết có nhiều nghi ngờ là điều cần thiết.

Khi gia đình Micheal Jackson đòi hỏi chính quyền làm sáng tỏ cái chết của người ca sĩ tài danh và được chính quyền đáp ứng. Phải chăng gia đình Micheal Jackson nhờ có sức mạnh của đồng tiền? Điều này để mọi người thấy rằng, là thành phần thiểu số, cái vốn của chúng ta chỉ là những lá phiếu. Tuy thiểu số, nhưng trong các cuộc tranh cử vừa qua đã cho thấy những lá phiếu thiểu số này đã góp phần tích cực vào sự định đoạt chức vụ Thị trưởng, Nghị viên trong thành phố. Và cuối cùng, cộng đồng VNHN trên mọi phương diện đừng để chính quyền địa phương nơi mình cư trú nghĩ rằng, chúng ta chỉ là những cục thịt biết đi, biết đứng cho họ tùy tiện bóp méo, vo tròn .

*Đặng thiên Sơn (3/9/09)













Tự hào dân tộc!

* Đặng thiên Sơn.

Người Việt thường tự hào mình là một dân tộc có trên “Bốn Ngàn Năm Văn Hiến”. Nhưng, hỏi văn hiến là gì? Thì hầu như nhiều người, đặc biệt là thế hệ trẻ không tránh khỏi sự lúng túng khi giải thích về hai chữ này. Vì vậy, ý niệm về văn hiến chỉ là sáo ngữ và trở thành một thứ thông điệp là “nói để mà nói”. Người ta lúng túng có hai lý do. Thứ nhứt, vì không chịu tìm hiểu. Thứ hai, vì ý nghĩa của nó quá bao la, bát ngát. Vậy văn hiến là gì, nội dung ra sao?

Nếu văn hóa và văn minh có nguồn gốc từ phương Tây. Thì tại phương Đông khái niệm về văn hiến được nhắc nhở đến tại Trung Hoa và Việt Nam. Riêng ở Việt Nam, hai chữ văn hiến thường được nói đến từ khi xuất hiện trong bài “Bình Ngô Đại Cáo” của Nguyễn Trãi vào năm 1428 qua hai câu:

Như nước Ðại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.

Theo Chu Hy đời Tống, Trung Hoa giải thích thì văn là “điển tịch dã”. Còn hiến là “hiền dã”. Tức văn chỉ về “khuôn phép, trước tác, sách vở”. Còn hiến chỉ về những “nhân vật hiền tài”. Như vậy, văn hiến là văn hoá, sáng tạo và số lượng hiền tài của đất nước.

Nội dung của văn hiến biểu hiện trong đời sống con người qua các phương diện Văn hóa, Xã hội, Chính trị, Kinh tế. Những biểu hiện này thay đổi liên tục hết thế hệ này tới thế hệ kia theo từng thời kỳ mạnh, yếu của đất nước đã tạo nên lịch sử.

Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,
Song hào kiệt thời nào cũng có.

( Bình Ngô Đạo Cáo của Nguyễn Trãi)

Một cá nhân không hiểu lịch sử dân tộc mình sẽ ngại ngùng, bở ngở trước các dân tộc khác khi được hỏi tới . Điều này, có thể đưa đến sự chối bỏ nguồn gốc và dẫn tới một quyết định mù quáng. Tại hải ngoại có nhiều người ra đường không dám nhận mình là người VN. Ngược lại, đã không hỗ thẹn tự nhận mình là người Tàu, người Nhật, người Đại hàn. Trong khi lịch sử dựng nước, giữ nước của các dân tộc vừa kể không có gì hay ho đáng để tự hào hơn Việt Nam.

Muốn tự hào về dân tộc, người ta phải hiểu được những thứ đáng để tự hào. Phải trang bị cho mình sự hiểu biết về lịch sử. Muốn được như vậy, thì phải hiểu kiến thức mỗi cá nhân không ai cho, không ai biếu, không ai tặng mà người ta phải tự mình tìm đến nó.

Là người Việt Nam khi hiểu được ý nghĩa các hoa văn khắc hình chim, gà, hươu và con người trên mặt Trống Đồng Ngọc Lũ sau thế kỷ thứ 4 trước Tây lịch tiêu biểu cho sinh hoạt 4 mùa của muôn loài, là một quyển Âm Lịch kỳ diệu thì chúng ta mới hảnh diện được về văn hóa dân tộc.
Nếu biết thành Cổ Loa xây vào thế kỷ thứ 3 trước Tây lịch đời vua An Dương Vương có 9 vòng xoáy trôn ốc từ trong ra ngoài với các hào, lũy kiên cố về mặt quân sự là tuyến phòng thủ chống ngoại xâm, về mặt xã hội là nơi cư trú của người dân và về mặt văn hóa là trình độ sáng tạo của con người. Thì thành Cổ Loa xứng đáng là một kiến trúc độc đáo của nhân loại. Bởi vì, đem so sánh với Kim Tự Tháp của Ai Cập xây vào năm 2770 trước Tây lịch tuy có nền kiến trúc văn minh cổ đại, nhưng chỉ là mồ chôn của các vua chúa. Hay Vạn Lý Trường Thành đời nhà Thương do Tần Thủy Hoàng xây vào thế kỷ thứ 2 trước Tây lịch là một công trình, nhưng chỉ là con đường dài ngoằn ngoèo băng qua các đỉnh đồi.
Phải thấy lý tưởng chiến đấu của Hai Bà Trưng, mới tự hào dân tộc VN đã có người phụ nữ lãnh đạo đất nước đầu tiên trên thế giới vào năm 40 sau Tây lịch. Đem so với nữ hoàng Ai cập Cleopastra nối ngôi vua cha vào năm 51 trước Tây lịch hay đời nhà Đường năm 690 có Võ Tắc Thiên, đời Mãn Thanh năm 1835 có Từ Hy Thái Hậu. Và đối với lịch sử cận đại Anh quốc có nữ hoàng Elizabeth Alexandra Mary, có thủ tướng Margaret Hilda Thatcher; Phi luật Tân có tổng thống Maria Cojuangco Aquino, TT. Macapagal Arroyo và Đức quốc có bà thủ tướng Angela Merkel. Thì những người đàn bà vừa kể, không ai thể hiện được tinh thần quốc gia dân tộc với bốn chữ “ Nợ nước, tình nhà”.
Khi nhận ra được trận thủy chiến của Ngô Quyền vào năm 938 và Trần Hưng Đạo vào năm 1288 trên sông Bạch Đằng với quân Nam Hán, quân Nguyên bằng tầm vong, cọc sắt là sự phối hợp và vận dụng thủy triều một cách khoa học có một không hai của nhân loại, và vào năm 1786 chỉ trong vòng bảy ngày vua Quang Trung Nguyễn Huệ đã đánh đuổi quân Mãn Thanh đông gấp mấy chục lần ra khỏi bờ cõi, mới tự hào mình là dân Việt Nam.

Những chiến công và tinh thần chiến đấu bảo vệ tổ quốc của tiền nhân vừa kể. So với những trận đánh với vủ khí cận đại khi người Anh ca tụng tướng Bernard Montgomery, người Mỹ ca tụng tướng George Smith Patton, người Pháp ca tụng tướng Charles De Gaulle thời đệ nhị thế chiến về “Trận chiến huyền thoại Normandy 1944”,thì những người này vẫn không sánh bằng.

Nhìn lại dân tộc VN , với hơn 1.000 năm bị Tàu đô hộ và 100 năm bị thực dân Pháp cai trị, nhưng bản sắc dân tộc vẫn còn. Chúng ta không mất gốc, không bị đồng hóa và còn xuất sắc hơn nữa là đã có được một tiếng nói riêng độc đáo. Đặc thù này so với các dân tộc Nam Mỹ như: Mễ, Ba Tây, Á Căn Đình v.v… họ chỉ bị Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha đô hộ chưa đầy 100 năm đã mất gốc, tiếng nói không còn. Vậy thì tại sao chúng ta không tự hào về dân tộc của mình?

Người Việt tỵ nạn cộng sản nếu không hiểu rõ lịch sử lá cờ vàng ba sọc đỏ, là sự chuyển hóa nối tiếp của lá cờ dân tộc với “quẻ càng” có nền vàng từ năm 1802 đời nhà Nguyễn, chớ không phải là quốc kỳ của thời đệ nhứt, đệ nhị VNCH. Thì làm sao đủ thuyết phục người nghe, khi muốn triệt hạ lá cờ nền đỏ sao vàng của đảng CSVN bán nước xuất hiện năm 1930, đang áp đặt lên dân tộc Việt Nam.

Người Mỹ không chấp nhận lá cờ “Con Voi Trắng” của đảng Cộng hoà hay “Con lừa ” của đảng Dân chủ là quốc kỳ của mình. Họ chỉ công nhận lá cờ hiện nay có tiểu sử từ 13 ngôi sao (thirteen colonies) đến 50 ngôi sao tượng trưng cho 50 tiểu bang kể từ ngày lập quốc vào năm 1776. Thì phải hiểu người Việt Nam tỵ nạn CS tại hải ngoại không chấp nhận lá cờ máu của đảng CSVN là điều đương nhiên.

Việt Cộng gian ác đang ngụy tạo lịch sử dân tộc. Chúng cho rằng vua Hùng có công dựng nước, nhưng người có công giữ nước là Hồ Chí Minh. Đây là một sự man trá trắng trợn không thể tha thứ được. Do đó, kiến tạo niềm tự hào để trả sự thật cho lịch sử là điều cần thiết đối với mọi thế hệ. Đặc biệt là thế hệ trẻ, những người đang trên đường thay thế cha, thay thế anh trong sự nghiệp xây dựng cộng đồng VN hải ngoại và chuẩn bị kiến tạo một nước Việt Nam độc lập, tự do không cộng sản tại quê nhà.

Với quá trình dựng nước và giữ nước qua bao thăng trầm, dân tộc Việt Nam vẫn trường tồn. Điều này, phải chăng đã cho thấy chúng ta nhờ có truyền thống “mấy ngàn năm văn hiến” ? Nếu thừa nhận và coi đó là tài sản quí báu của cha, ông để lại thì đây không phải là điều chúng ta ngẫng mặt tự hào hay sao?

Đặng thiên Sơn (26/8/09)

Tài liệu tham khảo:
-Việt Nam Văn Minh Sử của Lê Văn Siêu
-Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim
- Bách Khoa Toàn Thư (Wikipedia)